2. Trẻ sơ sinh thiếu tháng (đẻ non)
Trẻ đẻ thiếu tháng hay còn gọi là trẻ đẻ
non là những đứa trẻ ra đời trước thời hạn phát triển bình thường trong tử
cung, có tuổi thai từ 28 - 37 tuần (theo định nghĩa của WHO).
Tại Hội nghị Y tế đầu tiên (1984) có quy định rằng: Những trẻ mới đẻ cân nặng
dưới 2500g đều xem như trẻ đẻ non. Những trẻ đẻ ra dưới 20 tuần gọi là sảy
thai; những trẻ có tuổi thai từ 21 - 28 tuần gọi là quá non (Bảng
10).
Bảng 10: Chẩn đoán tuổi thai
Tuổi thai (tuần)
|
<20
|
21-27
|
28-37
|
38-42
|
Chẩn đoán
|
Sảy thai
|
Quá non
|
Đẻ non
|
Đủ tháng
|
Cân nặng (g)
|
500
|
500-999
|
1000-2500
|
>2500
|
Chiều dài (cm)
|
25
|
26-37
|
38-45
|
>45
|
Vòng đầu (cm)
|
<25
|
25-27
|
28-31
|
32-35
|
Vòng ngực (cm)
|
<21
|
22-24
|
25-29
|
30-33
|
2.1. Nguyên nhân đẻ non
2.1.1, Do mẹ
·
Những người mẹ đẻ con so có tuổi đời
quá trẻ (<16 tuổi) hoặc quá già (>40 tuổi), có mức sinh hoạt về
kinh tế, văn hoá thấp, nghiện rượu, nghiện thuốc lá, lao động nặng trong
lúc mang thai, không được chăm sóc khi có thai hoặc có những chấn
thương lớn về tinh thần.
·
Những người mẹ bị:
+ Các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính: Sốt rét
ác tính, cúm, sốt xuất huyết, viêm phổi.
+ Các bệnh nhiễm khuẩn mạn tính: Lao, viêm
gan, đái tháo đường, giang mai, tosoplasmose, bệnh tim, bệnh thận, bệnh
thần kinh...
+ Các bệnh phụ khoa: Rau tiền đạo, nhiễm
độc thai nghén; hở eo cổ tử cung, sản giật...
+ Các sang chấn ngoại khoa: Mổ ruột thừa
khi có mang, tai nạn giao thông, ngã...
+ Các bệnh miễn dịch, di truyền, nội tiết:
Mẹ có nhóm máu Rh -, tiền sử đẻ non, sảy thai...
2.1.2. Do con
· Đa
thai.
· Thai dị
dạng nặng.
2.2. Đặc điểm trẻ đẻ non - Hình
thể ngoài:
+ Cân nặng: < 2500 g.
+ Chiều dài cơ thể: < 45 cm.
+ Da: Trẻ càng đẻ non da càng mỏng, càng
đỏ, nhìn càng rõ nhiều mạch máu dưới da, tổ chức mỡ dưới da càng kém phát triển
và trên da càng có nhiều lông tơ, nhất là ở vai, lưng, hông, mặt, trán
và tứ chi. Tổ chức vú và đầu vú chưa phát triển.
+ Tóc kém phát triển (thường dưới 2
cm) nhất là vùng trán và vùng đỉnh, vùng chẩm thường dài hơn.
+ Móng tay, móng chân ngắn, mềm, không
trùm lên ngọn chi.
Bảng 11a: Bảng điểm đánh giá tuổi thai sơ
sinh non tháng theo Finstom:
Điểm
|
1
|
2
|
3
|
4
|
Vòng sắc tố vú
|
≤ 5 mm
|
5-10
|
Gần bằng 10
|
>10
|
Đầu vú
|
Khó nhìn thấy
|
Xác định rõ
|
Nổi cao gần
bằng 2mm
|
Nổi cao
>2mm
|
Mạch máu dưới
da
|
Thấy rõ mạch máu
lớn ở bụng
|
Nhìn thấy một số
mạch máu nhỏ
|
Rất ít mạch máu
|
Không nhìn thấy
mạch máu
|
Tóc
|
Mềm như len
|
Dày mượt
|
Dài 2-3 mm
|
Dài > 3 mm
|
Móng tay
|
Chưa trùm kín đầu
ngón tay
|
Trùm kín nhưng
chưa rõ
|
Trùm kín đầu ngón,
phân biệt rõ đầu móng
|
Trùm kín đầu ngón,
phân biệt rõ đầu móng
|
Sụn vành tai
|
Không có sụn ở phần
dưới vành
tai.
|
Sun phần dưới
vành tai mềm
|
Sụn phần
ngoài vành tai
|
Sụn toàn bộ vành
tai
|
Độ ve vẩy vành
tai
|
(-)
|
(±)
|
(+)
|
(+)
|
Nếp da lòng bàn
chân
|
(-)
|
1/3 phía ngón
|
2/3 bàn chân
|
Rõ toàn bộ
|
Bảng 11b: Cách đánh giá tuổi thai sơ sinh
non tháng theo Finstom:
Tổng điểm
|
Chẩn đoán
|
Tổng điểm
|
Chẩn đoán
|
7
|
27 tuần
|
12
|
32 tuần
|
8
|
28 tuần
|
13 - 14
|
33 tuần
|
9
|
29 tuần
|
15
|
34 tuần
|
10
|
30 tuần
|
16
|
35 tuần
|
11
|
31 tuần
|
17
|
36 tuần
|
+ Tỷ lệ các phần cơ thể: Chân ngắn; đầu
to, chiều dài đầu >1/4 chiều dài cơ thể, thóp rộng, các rãnh xương sọ chưa
liền; lồng ngực dẹt; xương mềm, vành tai chưa có sụn.
+ Trẻ đẻ non thường nằm ở tư thế các chi
luôn luôn duỗi (càng non chi càng duỗi thẳng), trương lực cơ giảm, trẻ ít cử
động, dễ có hiện tượng thoát vị bẹn, thoát vị rốn.
+ Vòng rốn ở thấp, gần về phía xương mu.
+ Cơ quan sinh dục ngoài phát triển
chưa đầy đủ: Trẻ trai tinh hoàn chưa xuống hạ nang, trẻ gái môi lớn chưa
phát triển không che kín được môi nhỏ và âm vật. Hiện tượng biến động sinh dục
hầu như không có: trẻ không sưng vú, vú của trẻ không có sữa
non.
·
Trạng thái thần kinh: Trẻ thường li bì,
ít phản ứng, khóc yếu, các phản xạ bẩm sinh yếu hoặc chưa có: Phản xạ bú,
phản xạ cầm nắm (Robinson), phản xạ bắt chộp (Môrô) yếu.
·
Chức năng các bộ
phận như hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa,
thận, thần kinh, chuyển hóa chưa được hoàn thiện. Khả năng chống
nhiễm khuẩn, khả năng điều hoà thân nhiệt và khả năng thích nghi với môi
trường sống còn kém. Do đó, trẻ sơ sinh non yếu thường có nguy cơ tử
vong cao. Theo thống kê cho thấy: Tỷ lệ tử vong thường xảy ra
cao nhất vào những giờ đầu, ngày đầu và tháng đầu sau đẻ. Cho nên việc chăm sóc
trẻ sơ sinh non yếu cần được quan tâm chu đáo ngay sau trẻ khi ra đời.
2.3. Chăm sóc
Tất cả trẻ đẻ non đều có sự chưa trưởng
thành về chức năng các cơ quan và sự thiếu hụt về dự trữ các chất trong cơ thể.
Do vậy, khả năng thích nghi của trẻ đẻ non với môi trường rất kém: trẻ dễ bị
suy thở, hạ đường huyết, hạ thân nhiệt, dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và có nguy
cơ tử vong cao. Do vậy, vấn đề chăm sóc và nuôi dưỡng phù hợp ngay từ phút đầu
sau đẻ là rất quan trọng.
Nguyên tắc chăm sóc trẻ đẻ non là :
·
Đảm bảo cho sự thở
·
Trẻ phải được bú sữa mẹ - Đảm
bảo đủ ấm.
·
Điều kiện vệ sinh vô khuẩn
2.3.1. Chăm sóc sự thở
Trẻ đẻ non thường có kiểu thở và nhịp thở
sau:
- Kiểu thở bụng: Khi hít vào bụng
phồng lên, khi thở ra bụng xẹp xuống. - Nhịp thở có chu kỳ: Trẻ thở
nhiều lần với cường độ tăng dần lên, rồi lại giảm dần xuống, tiếp theo là ngừng
thở khoảng vài giây. Thời gian ngừng thở dài, ngắn khác nhau và có thể kéo dài
tới 20 giây. Hiện tượng này có thể tồn tại vài tuần. Khi trẻ thở đều là
dấu hiệu của sự trưởng thành. Nếu cơn ngừng thở kéo dài trên 30 giây, kéo theo tím
tái rõ với sự chậm lại của nhịp tim, thì việc phục hồi sự thở sẽ khó khăn hơn.
Do vậy, nếu hiện tượng này lặp lại nhiều lần thì đòi hỏi phải được theo dõi sát
sao, tốt nhất là bằng máy ghi (monitoring) và điều trị triệu chứng:
+ Kích thích da hoặc dùng các đệm nước
+ Uống Theophylin 1,5 -4mg/kg/6giờ
+ Có thể phải sử dụng phương pháp giãn phế
nang liên tục
+ Thở oxy trong cơn tím tái (không được
thở oxy ngoài cơn tím tái nếu phổi bình thường, vì oxy ức chế trung tâm hô
hấp).
2.3.2. Nuôi dưỡng
- Cung cấp đầy đủ năng lượng.
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ. Cho
trẻ ăn sớm ngay sau khi đẻ với số lượng sữa như sau:
+ Đối với trẻ đẻ ra có cân nặng
<1800g:
Ngày thứ 1: 25 - 30
ml/kg/24 giờ
Ngày thứ 2: 50 ml/kg/24 giờ
Ngày thứ 3: 80 ml/kg/24 giờ
Ngày thứ 4: 100 ml/kg/24 giờ
Ngày thứ 5: 120 ml/kg/24 giờ
Ngày thứ 6-7:140 ml/kg/24 giờ
Từ tuần thứ 2 trở đi: Nếu trẻ không
trớ, cho trẻ ăn tăng dần từ 150 tới 200 ml/kg/ngày.
+ Đối với trẻ đẻ ra có cân nặng 1800 - 2500g:
Ngày thứ 1: 60ml/kg/24h
Ngày thứ 2: 90ml/kg/24h
Ngày thứ 3: 120ml/kg/24h
Ngày thứ 4: 140ml/kg/24h
Ngày thứ 5: 150ml/kg/24 giờ
Trẻ có cân nặng càng thấp, càng ít
ngày tuổi thì càng phải cho ăn làm nhiều bữa.
Ví dụ: Trẻ <1800 g, ngày đầu có thể cho
ăn 12 bữa, sau đó giảm xuống 11, rồi xuống 10, xuống 9 và cuối cùng
là 8 bữa/ngày.
Nếu trẻ chưa bú được thì phải đổ bằng
thìa.
Nếu trẻ không bú hoặc không nuốt được thì
phải đặt sonde dạ dày để theo dõi dịch dạ dày trước khi cho ăn và để biết
sữa bữa trước có tiêu hoá được không: Nếu dịch dạ dày trong hoặc có ít
sữa vón là tốt; nếu dịch dạ dày đục bẩn, ứ đọng nhiều (>1/4 số lượng
sữa ăn bữa trước) hoặc có vẩn hồng thì phải hút hết dịch ra, nhịn ăn, theo dõi
sát và báo Bác sỹ để ra y lệnh truyền dịch. Khi cho trẻ ăn qua sonde thì phải
đưa sữa vào dạ dày từ từ.
Vì nhu cầu năng lượng của trẻ đẻ non
(130 - 140 kcal/kg/ngày) cao hơn trẻ đủ tháng
(100 - 120 kcal/kg/ngày) và có sự thiếu hụt về dự trữ glycogen trong
gan, do vậy trẻ rất dễ bị hạ đường huyết, nên khi trẻ ăn không đủ số lượng sữa
thì phải truyền thêm dung dịch đường 10% và điện giải Na và K
(1 - 2 mEq/kg/ngày) hoặc trẻ quá non, phản xạ nuốt
kém thì cũng phải truyền dịch và cho ăn qua sonde.
Nếu trẻ bú được thì cho trẻ bú nhiều lần
trong ngày theo nhu cầu. Nếu bú chưa đủ số lượng thì cần phải vắt sữa đổ thêm
bằng thìa.
Nếu không có sữa mẹ thì có thể xin sữa của
các bà mẹ khác hay thay bằng sữa bò tách bơ.
Trẻ cần được cân hàng ngày trong những
điều kiện giống nhau, để đánh giá sự lớn lên của trẻ, nghĩa là đánh giá chế độ
nuôi dưỡng của chúng ta giành cho trẻ.
Cần phải ghi lại đều đặn vào phiếu theo
dõi những thông tin về cân nặng, thân nhiệt, số lần ỉa, tính chất
phân, tình trạng ứ đọng trong dạ dày, sự chướng bụng để điều chỉnh chế độ ăn
của trẻ.
- Thuốc:
Chỉ dùng kháng sinh khi trẻ bị nhiễm
khuẩn hoặc đe dọa bị nhiễm khuẩn như: mẹ chuyển dạ lâu, ối vỡ sớm
> 12 giờ, trẻ ngạt, hít phải nước ối bẩn lẫn phân su hoặc trẻ phải
chuyển từ xa tới bằng phương tiện không đảm bảo vệ sinh và đủ ấm.
Ngoài ra có thể tăng cường một số loại
vitamin và muối khoáng:
+ Vitamin K: 2 - 5 mg tiêm bắp
trong ngày đầu, chỉ tiêm 1 lần + Vitamin E: 25 đv/ngày trong suốt thời kỳ
sơ sinh.
+ Vitamin C: 50 mg/ngày từ ngày thứ
2 - 3 cho đến hết thời kỳ sơ sinh.
+ Vitamin B1: 5 mg/ngày từ ngày thứ
2 - 3 cho đến hết thời kỳ sơ sinh.
+ Vitamin B6: 5 mg/ngày từ ngày thứ
2 - 3 cho đến hết thời kỳ sơ sinh. + Vitamin A: 1000 đv/ngày từ
tuần thứ 2 trở đi trong suốt năm đầu.
+ Vitamin D 1000 đv/ngày từ tuần thứ 2 trở
đi trong suốt năm đầu.
+ Sắt protoxalat: 50 mg/ngày từ tháng thứ
2 trở đi trong suốt 6 tháng.
2.3.3. Đảm bảo đủ ấm.
Trẻ đẻ non rất hay bị hạ thân nhiệt, do
vậy ngay từ trong phòng đẻ, trẻ non tháng phải được sưởi ấm: Sử dụng các đồ vải
khô và nóng trên bàn hồi sinh và đảm bảo nhiệt độ môi trường tối ưu đối
với trẻ, luôn giữ nhiệt độ cơ thể trẻ 36,5 - 370C. Nếu
thân nhiệt của trẻ hạ xuống dưới 340C thì khả
năng hồi phục là rất khó khăn và dưới 32 - 300C là không
thể được. Nếu để trẻ nằm trong môi trường có nhiệt độ quá cao thì thân nhiệt
của trẻ nhanh chóng tăng cao, có khi lên tới 39 - 400C. Nhiệt
độ thích hợp trong phòng nuôi trẻ non tháng là 28 –
350C, thoáng
và tránh gió lùa. Nên nuôi trẻ đẻ non theo phương pháp
Kangaroo - “phương pháp chuột túi" hoặc đối với trẻ có cân nặng <1800g,
nên nuôi trong lồng ấp, nếu có điều kiện.
+ Phương pháp Kangaroo:
·
Trẻ mặc áo mỏng, quấn khố (nên có tã nylon quấn
ngoài để tránh ỉa đái vào người mẹ), đầu đội mũ.
·
Đặt trẻ ở tư thế thẳng đứng hoặc hơi
nghiêng sao cho ngực trẻ áp sát vào ngực mẹ, một bên má tựa vào ngực giữa hai
bầu vú.
·
Mẹ mặc áo quây, dùng khăn dài để giữ trẻ
(địu) cố định ở vị trí nêu trên được an toàn và thuận tiện cho việc đi
lại của mẹ. Mẹ có thể dùng áo thường ngày của mình khoác bên ngoài che
đắp cho trẻ.
·
Thời gian áp dụng: Cả ngày và đêm, trừ khi
tiêm, tắm và khi mẹ phải đi vệ sinh.
·
Phương pháp Kangaroo thường
được áp dụng cho trẻ có trọng lượng trên 2000g hoặc có tuổi thai dưới
37 tuần.
+ Nếu nuôi trong lồng ấp thì phải đảm bảo
nhiệt độ tiêu chuẩn sau:
Trọng lượng của trẻ
|
Nhiệt độ phòng hoặc
nhiệt độ lồng ấp
|
1000 g
|
33 - 35oC
|
2000g
|
30 - 33oC
|
3000g
|
28 - 30oC
|
Trẻ > 1800g thì không cần nuôi trong
lồng ấp, mà nên dùng phương pháp “chuột túi ” để giữ ấm cho trẻ hoặc ủ ấm
bằng chườm nóng, lò sưởi. Chú ý theo dõi nhiệt độ cho trẻ tối thiểu 2 lần
trong ngày.
2.3.4. Điều kiện vệ sinh vô khuẩn
Trẻ đẻ non là cơ thể rất non yếu, khả năng
thích nghi với môi trường ngoài tử cung rất kém, nhất là khả năng chống
đỡ với tình trạng nhiễm khuẩn, do vậy phải đảm bảo tốt điều kiện vệ sinh vô
khuẩn.
·
Nhân viên chăm sóc phải sạch sẽ, rửa tay
trước và sau khi chăm sóc trẻ. Nên tổ chức một đơn vị đặc biệt nuôi trẻ đẻ
non bao gồm nhân viên phục vụ, các trang thiết bị, dụng cụ y tế và tã
lót...riêng biệt, không chung với trẻ bệnh nhằm đề phòng lây chéo.
·
Môi trường xung quanh phải đảm bảo sạch.
·
Tắm trẻ:
Trẻ đẻ non, do sức đề kháng kém nên cần
phải giữ vệ sinh da. Do vậy, chúng phải được tắm rửa hàng ngày trên
nguyên tắc: Tắm bằng nước ấm, bằng xà phòng cho trẻ em (xà phòng
trung tính), tắm nhanh, lau thấm khô. Vào mùa đông, mỗi lần tắm xong, nên xoa
một lớp mỏng dầu parafin để giữ độ ẩm cho da và tránh mất nhiệt.
Khi tắm: Trước tiên là phải rửa mặt, tắm
nửa người trên rồi lau khô, quấn khăn ấm cho trẻ. Sau đó mới tiếp tục tắm
nửa người dưới, khi tắm không được nhúng cả người trẻ vào chậu nước.
Phòng tắm phải ấm, không có gió lùa. Kết thúc mỗi lần tắm: mặc quần áo mềm
bằng sợi bông, mỏng, nhiều lớp khi cần giữ ấm.
·
Rốn, mắt cần được chăm sóc cẩn thận như
trẻ sơ sinh đủ tháng.
Trẻ đẻ non là những đứa trẻ rất yếu, rất
dễ bị nhiễm khuẩn, khả năng thích nghi với môi trường ngoài tử cung rất
kém và có tỷ lệ tử vong rất cao chiếm gần 80% số trẻn đẻ non (tỷ lệ này
càng cao ở những trẻ đẻ quá non). Việc nuôi dưỡng và chăm sóc cho trẻ đẻ
non cần phải rất tỷ mỉ, chu đáo, tốn kém nhiều và cần phải có
kinh nghiệm chuyên môn. Do vậy, nên chuẩn bị cho người mẹ
có đủ sức lực để đón lấy đứa con khoẻ mạnh và tốt nhất là đề phòng cho trẻ khỏi
bị đẻ ra trước thời hạn. Đó là nhiệm vụ của các nhà sản khoa và chu sinh, cũng
như của toàn xã hội.
3. Trẻ sơ sinh già tháng
Trẻ sơ sinh già tháng là trẻ ra đời quá
thời gian phát triển bình thường trong tử cung (trên 42 tuần hoặc quá 295
ngày). Cũng có thể gọi thai già tháng là thai phát triển trong tử cung quá 15
ngày so với trẻ đủ tháng.
Thai già tháng là thai có nguy cơ cao, vì
việc nuôi dưỡng của rau thai đối với thai trong thời gian này không
tốt làm ảnh hưởng tới dinh dưỡng và sự phát triển của thai. Thai già
tháng có tỷ lệ tử vong cao gấp 2 - 4 lần so với trẻ đủ tháng:
Trẻ có thể chết trước, trong hoặc sau đẻ do các nguyên nhân như suy
hô hấp do hít phải phân su, chảy máu phổi, co giật và nhất là hạ
đường huyết. Nếu sống, dễ để lại di chứng về tinh thần kinh do thiếu oxy não.
3.1. Nguyên nhân - Hầu
như người ta vẫn chưa rõ vì lý do gì mà tới ngày sinh vẫn không thấy hiện tượng
chuyển dạ. Tuy vậy, trong tất cả các trường hợp thai già tháng, đều thấy
có hiện tượng ức chế sự tiến triển nội tiết tố của mẹ.
- Trẻ già tháng thường gặp ở những
người con so đứng tuổi (trên 40 tuổi), ở người nhiễm độc thai nghén, thai vô
sọ... và một số không rõ nguyên nhân.
3.2. Đặc điểm trẻ sơ sinh già tháng
·
Phần lớn thai già tháng có cân nặng giảm
(đôi khi có thai to do phù) do việc nuôi dưỡng của rau thai không còn khả năng
đáp ứng được nhu cầu về dinh dưỡng của thai nhi.
·
Da nhợt nhạt, đôi khi có màu vàng, xanh
lục, nhăn nheo, nứt nẻ, mất chất gây; đôi khi có hình ảnh da giấy,
thường bị bong tóc ra, lớp mỡ dưới da giảm hoặc mất phụ thuộc vào thời
gian quá tháng.
·
Giây rốn héo, màu xanh nhợt hoặc vàng úa
vì thấm nước ối lẫn phân su.
·
Nước ối giảm về khối lượng, màu vàng xanh.
·
Tóc rậm, móng tay dài.
·
Mắt mở to ngay sau khi sinh, trông lanh
lợi khác thường.
·
Trẻ hay bị suy hô hấp ngay sau
đẻ do thiếu oxy, dễ bị suy thai, hít phải nước ối. Clifford
chia trẻ già tháng làm 3 mức độ theo thời gian và theo tình trạng lâm sàng:
Độ 1: Trẻ dài; gầy; da khô nhăn nheo,
mỏng, màu sắc da bình thường; lớp chất gây ít; trẻ hay thở nấc; môi đỏ
toan và dễ hạ thân nhiệt.
Độ 2: Nước ối đổi màu; da và cuống rốn có
màu vàng xanh vì nhuốm phân su trong nước ối; trẻ gầy; ngơ ngác; lớp
mỡ dưới da mất. Apgar thường <5 điểm; suy hô hấp ngay sau đẻ.
Độ 3: Trẻ
suy dinh dưỡng và suy hô hấp nặng; da vàng xanh, khô, bong; móng chi và dây rốn
có màu vàng ngả xanh; có thể kèm theo xuất huyết dưới da và nội tạng (não, phổi)
hoặc co giật. Trẻ có thể chết trước, ngay sau hoặc trong vài ngày đầu sau đẻ.
3.3.
Chăm sóc
Thai già
tháng là thai có nguy cơ cao: Thai có thể chết trong tử cung (thai chết lưu),
chết trong khi chuyển dạ hay sau khi ra đời hoặc trong thời kỳ sơ sinh.
·
Để giảm nguy cơ tử vong, một số tác giả đề
nghị giải quyết sớm những sản phụ có nguy cơ đẻ già tháng bằng các biện pháp:
+ Đẻ chỉ
huy, bấm ối và cho oxytocin, khi thấy nước ối ít (giảm 50% so với bình
thường).
+ Mổ đẻ
khi thấy nước ối có máu hay có biểu hiện nhiễm độc thai nghén.
Do vậy, để
có thể xử trí sớm và đúng những trường hợp thai đủ tháng mà không có hiện
tượng chuyển dạ, thì công tác quản lý thai nghén phải được tiến hành chặt chẽ
và đều khắp.
·
Trẻ ra đời thường bị suy hô hấp do hít phải nước ối và bị
toan chuyển hoá, do vậy cần phải chuẩn bị sẵn các phương tiện để hồi sinh cho
trẻ trong buồng đẻ:
+ Phải hút
rãi nhớt cho trẻ, cho thở oxy hoặc trong trường hợp nặng phải đặt nội khí quản,
thở máy.
+ Thực
hiện y lệnh: Truyền dung dịch kiềm để chống toan.
·
Tắm rửa, chăm sóc rốn, chăm sóc mắt như
trẻ sơ sinh đủ tháng.
·
Cho trẻ bú sữa mẹ càng sớm càng tốt ngay
sau khi đẻ, đề phòng hạ đường huyết. Trong những ngày đầu sau đẻ, trẻ già tháng
thường có biểu hiện: suy hô hấp do hít phải phân su,
chảy máu phổi, co giật, giảm glucoza máu. Do vậy, trẻ phải được theo dõi sát để
phát hiện sớm các biểu hiện bệnh lý nêu trên để xử trí kịp thời. Một số y
lệnh thường được các bác
sỹ chỉ định trong thời gian này là:
+ Hút dờm
rãi, thở oxy
+ Sử dụng
thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn.
+ Truyền
máu trong trườ ng hợp Hb giảm.
+ Tiêm 2 - 5 mg Vitamin K đề
phòng xuất huyết.
+ Truyền
dung dịch ngọt ưu trương chống hạ đường huyết.
Post a Comment