Dùng ngón tay cái ấn vào những
điểm kinh điển như: hang chũm, mỏm chũm, bờ chũm, nắp tai để tìm
điểm đau. Chú ý hiện tượng nhăn mặt khi ta ấn vào tai bệnh.
Hỏi bệnh
Khai
thác những triệu chứng sau đây: đau tai, giảm thính lực, ù tai, chảy
tai, chóng mặt và liệt mặt.
Thời
gian xuất hiện, diễn biến, liên quan của các triệu chứng với nhau,
với toàn thân với các cơ quan khác. Những triệu chứng chức năng như:
đau, nghe kém, ù tai, chóng mặt mà bệnh nhân kể, cần phân tích xem có
đúng không? vì bệnh nhân có thể dùng những từ không đồng nghĩa với
thầy thuốc. Ví dụ: có những bệnh nhân kêu là chóng mặt nhưng khi hỏi
kỹ thế nào là chóng mặt, thì họ kể rằng mỗi khi đứng dậy nhanh
thì tối sầm mắt kèm theo nảy đom đóm mắt. Chúng ta gọi hiện tượng
này là hoa mắt chứ không phải chóng mặt.
Ngoài
ra chúng ta phải tìm hiểu thêm về các hiện tượng bệnh lý ở những cơ
quan khác như: tim, mạch máu, phổi, đường tiêu hoá... tất cả các
triệu chứng đó sẽ giúp chúng ta nhiều trong việc chẩn đoán nguyên
nhân gây bệnh.
Tình
trạng toàn thân của người bệnh: tình trạng nhiễm khuẩn, thể trạng
suy nhược.
Đã
điều trị thuốc gì chưa? phương pháp điều trị trước đây, đã mổ chưa?
ai là người mổ, mổ ở đâu? ...
Các
rối loạn của cơ quan khác như: thần kinh, tiêu hoá (hỏi bệnh nhân xem
có rối loạn tiêu hoá, có bị thấp khớp không? Những bệnh toàn thân
có ảnh hưởng đến một số hiện tượng như: ù tai, nghe kém, chóng
mặt...
Hỏi
về tiền sử: cần hỏi về tiền sử cá nhân, gia đình, các yếu tố sinh
hoạt, nghề nghiệp, thói quen như: hút thuốc lá, uống rượu, dị ứng
thuốc, đẻ non...
Thăm khám thực thể
Dụng cụ khám tai
Đèn
Clar.
Gương
trán.
Loa
soi tai (Speculum) các cỡ.
Móc
ráy.
Âm
thoa.
Ống
soi tai Siègle.
Tăm
bông.
Nỉa
khuỷu.
Bóng
bơm không khí…
Khám bên ngoài
Quan
sát và phát hiện những biến đổi về hình thái của da, các biến
dạng ở vành tai (do bẩm sinh), những trường hợp viêm hạch do mụn nhọt
hay rò xương chũm. Chúng ta quan sát vành tai, cửa tai xem da ở trước
tai và sau tai.
Sờ
nắn vùng chũm, vành tai để biết được điểm đau và chỗ sưng phân biệt
viêm ống tai ngoài đơn thuần, tiên lượng tốt hơn so với viêm xương chũm.
Dùng
ngón tay cái ấn vào những điểm kinh điển như: hang chũm, mỏm chũm,
bờ chũm, nắp tai để tìm điểm đau. Chú ý hiện tượng nhăn mặt khi ta
ấn vào tai bệnh.
Đối
với trẻ nhỏ chúng ta không nên dựa hoàn toàn vào sự trả lời của
bệnh nhi vì sờ vào chỗ nào cũng kêu đau hoặc khóc thét lên. Trái
lại chúng ta đánh giá cao hiện tượng nhăn mặt vì đau khi chúng ta ấn
vào tai bệnh.
Tay
sờ giúp chúng ta phát hiện sự đóng bánh ở sau tai hoặc sưng hạch ở
trước tai.
Tìm
dấu hiệu phản ứng của xương chũm.
Soi tai và màng nhĩ
Tư thế bệnh nhân
Nếu
soi tai trẻ nhỏ, nên cho đi tiểu trước khi khám, người phụ bế trẻ trên
lòng. Nếu trẻ quấy khóc, dãy dụa, cuộn trẻ vào một khăn to, một
người giữ đầu, một người giữ vai và tay và một người giữ chi dưới.
Hoặc người mẹ phải bế em bé trên đùi và ôm ghì em bé vào ngực để
giảm sự sợ hãi và dãy dụa.
Nếu
bệnh nhân là người lớn để họ ngồi đối diện với thầy thuốc. Bệnh
nhân quay đầu, hướng tai được khám đối diện với thầy thuốc, chú ý
khám tai tốt trước, tai bệnh sau.
Sử dụng ống soi tai
Thầy
thuốc đầu đội đèn Clar hoặc gương trán tập trung ánh sáng vào cửa
tai. Một tay cầm phía trên vành tai kéo nhẹ lên phía trên và ra sau.
Tay kia cầm loa soi tai bằng hai ngón cái và trỏ, đưa nhẹ và hơi xoay
ống soi vào trong và chọn ống soi tai vừa cỡ với ống tai.
Nên
hơ ấm dụng cụ (mùa lạnh) trước khi cho vào tai. Khi đặt ống soi tai
không nên đẩy thẳng từ ngoài vào trong mà phải theo chiều cong của
ống tai, tránh làm tổn thương thành ống tai.
Nếu
có ráy hoặc mủ ống tai thì phải lấy ráy hoặc lau sạch mủ rồi mới
khám.
Muốn
thấy phần trên của màng nhĩ cần phải hướng loa soi tai về phía trên
và phía trước.
Quan sát từ ngoài vào trong
Xem
ống tai ngoài có lỗ rò, nhọt, loét, xước da, dị vật hay nút ráy
không?
Khám
màng nhĩ: phải biết được hình dạng, màu sắc, độ nghiêng của màng
nhĩ, hình dạng các mốc giải phẫu, độ lõm, độ phồng, có thủng, có
rách không? để chẩn đoán viêm tai giữa.
Hình
ảnh màng nhĩ bình thường: màng nhĩ hình trái xoan, màu trắng bóng
như vỏ củ tỏi. Ở người lớn màng nhĩ nghiêng về phía ngoài 45o so
với trục đứng của ống tai ngoài. Ở hài nhi góc này lên trên 60o. Do vậy
nên màng nhĩ rất khó xem ở loại bệnh nhân này.
Người
ta chia màng nhĩ làm 2 phần, màng căng và màng chùng. Ranh giới giữa
2 màng là dây chằng nhĩ búa trước và dây chăng nhĩ búa sau. Giữa
màng căng thấy có điểm lõm, đó là rốn màng nhĩ tương xứng với cực
dưới của cán búa. Cán búa là 1 cái gờ dọc đi từ bờ trên của màng
căng xuống đến rốn màng nhĩ, nó hơi nghiêng về phía trước khoảng 15o.
Ở cực trên của cán búa có 1 điểm lồi bằng đầu kim ghim, được gọi
là mấu ngắn của xương búa. Về phía dưới và trước của màng nhĩ có
1 vùng sáng hình tam giác. Đó là sự phản chiếu ánh đèn do mặt bóng
của màng nhĩ (gọi là nón sáng). Màng chùng bắt đầu từ phía trên
dây chằng nhĩ búa, màng nhĩ ở đây màu hồng, dễ nhầm lẫn với da của
ống tai. Màng chùng còn được gọi là màng Shrapnell và ngăn cách
thượng nhĩ với ống tai ngoài.
Trong
khi khám màng nhĩ chúng ta nên bảo bệnh nhân bịt mũi, ngậm miệng và
nuốt nước bọt (nghiệm pháp Toyenbée) để xem màng nhĩ có di động
không? Chúng ta có thể thay thế nghiệm pháp này bằng cách bơm không
khí vào ống tai với ống soi tai Siègle và quan sát sự di động của màng
nhĩ.
Các mốc giải phẫu
Mấu
ngắn xương búa: nhỏ bằng đầu đinh ghim, lồi lên và lộ ra qua màng
nhĩ.
Cán
xương búa: là một nếp trắng, đi xuống dưới và ra sau tới giữa màng
căng.
Tam
giác sáng: từ trung tâm màng nhĩ ta thấy hiện lên một vùng sáng do
sự phản chiếu ánh sáng lên mặt của màng nhĩ.
Dây
chằng nhĩ búa trước và sau: đi từ mấu ngắn xương búa ngang ra phía
trước và phía sau.
Màng
chùng: ở trên mấu ngắn xương búa và dây chằng nhĩ búa (màng
Shrapnell).
Màng
căng: dưới màng chùng.
Trong
trường hợp tai bị bệnh chúng ta sẽ thấy sự thay đổi màu sắc, độ
bóng, độ nghiêng của màng nhĩ. Trong trường hợp tai giữa có mủ thì
màng nhĩ sẽ bị đẩy lồi ra ngoài. Sự vắng mặt của tam giác sáng và
của những nếp gờ sẽ nói lên màng nhĩ bị phù nề. Màng nhĩ cũng có
thể bị thủng hoặc có những sẹo mỏng, sẹo dầy, sẹo dính, sẹo vôi
hoá.
Nếu
màng nhĩ thủng cần xem kỹ lỗ thủng, ở màng căng hay màng chùng,
hình thái lỗ thủng, một lỗ hay nhiều lỗ, kích thước và có sát
khung xương không? bờ lỗ thủng có nhẵn hay nham nhở, có polyp không?...
Khám vòi nhĩ (Eustachi)
Chúng
ta có nhiều cách thử để xem vòi nhĩ (Eustachi) có bị tắc không?
Nghiệm
pháp Toynbée: bảo bệnh nhân bịt mũi, ngậm miệng và nuốt nước bọt,
nếu bệnh nhân có nghe tiếng kêu ở tai là vòi nhĩ thông.
Nghiệm
pháp Valsalva: bảo bệnh nhân bịt mũi, ngậm miệng và thổi hơi thật
mạnh làm phồng cả 2 má, nếu bệnh nhân có nghe thấy tiếng kêu ở tai
là vòi nhĩ thông.
Nghiệm
pháp Politzer: bảo bệnh nhân ngậm 1
ngụm nước, bịt 1 bên mũi, thầy thuốc dùng 1 quả bóng cao su to bơm
không khí vào mũi bên kia trong khi bệnh nhân nuốt nước, nếu bệnh nhân nghe tiếng kêu trong tai tức là vòi
Eustachi thông.
Khám tiền đình
Các nghiệm pháp tự phát
Nghiệm pháp thăng bằng:
Nghiệm pháp Romberg: người bệnh đứng
thẳng, hai chân chụm lại, nhắm mắt. nếu rối loạn thăng bằng bệnh nhân
sẽ ngã hoặc nghiêng người về một bên.
Nghiệm
pháp lệch ngón tay: bệnh nhân và thầy thuốc cùng ngồi đối diện nhau:
bệnh nhân dơ thẳng hai tay về phía trước, các ngón khác nắm lại trừ
ngón trỏ duỗi thẳng. Thầy thuốc co hai tay trước ngực, nắm các ngón
trừ ngón cái duỗi thẳng để đối diện với ngón trỏ của bệnh nhân
cách nhau vài cm. Bệnh nhân nhắm mắt lại, nếu có rối loạn, ngón trỏ
sẽ lệch về một bên (so với ngón cái của thầy thuốc).
Nghiệm
pháp đi hình sao Babinsky-Weil: bệnh nhân nhắm mắt, đi thẳng phía trước
mặt 8 - 10 bước rồi lại giật lùi 8 - 10 bước nhiều lần. Thầy thuốc
đi kèm theo để đỡ khi bệnh nhân ngã. Nếu có rối loạn thì tiến lên
luôn lệch về một hướng khi lùi lại cũng vậy, các hướng đi sẽ tạo
thành hình sao.
Nếu
có tổn thương của tiền đình sẽ nghiêng, lệch ngón trỏ hay đi lệch về
bên tai bệnh.
Động
mắt tự phát: bênh nhân mở to mắt, nhìn theo ngón tay thầy thuốc, để
khoảng cách 0,4 m lưu ý chỉ liếc mắt theo không được cử động đầu theo.
Thầy thuốc để ngón tay, trước mặt bệnh nhân sau đó đưa từ từ sang
ngang tới góc khoảng 600 rồi lại đưa ngón tay sang bên đối diện. Theo
dõi để phát hiện động mắt:
Thể
động mắt: ngang, đứng hay quay.
Hướng
động mắt: theo hướng giật nhanh.
Mức
độ động mắt.
Các nghiệm pháp gây ra
Nghiệm
pháp nước lạnh: để bệnh nhân ngồi thẳng trên ghế tựa, bơm 10 ml nước
lạnh ở nhiệt độ 250C vào tai. Chỉ thực hiện khi màng nhĩ không
thủng.
Bình
thường 20 giây, xuất hiện động mắt và kéo dài trong 60 giây. Nếu thời
gian xuất hiện ngắn và động mắt kéo dài quá 120 giây được coi là
quá kích thích. Nếu ngược lại được coi là kém kích thích.
Nếu
sau 60 giây không thấy xuất hiện động mắt, bơm tiếp nước lên đến 100
ml, nếu vẫn không có động mắt được coi là không trả lời (tiền đình
đã bị huỷ diệt).
Nghiệm
pháp ghế quay.
Nghiệm
pháp bơm hơi: nếu bơm hơi không khí vào tai qua ống soi tai Siègle. Bình
thường chỉ có cảm giác hơi tức do khí nén vào màng nhĩ. Nếu xuất
hiện động mắt ngang hoặc quay về hướng tai bệnh, nghĩ tới co lỗ dò
ống bán khuyên ngang (gặp trong viêm xương chũm có cholesteatome hay sau
phẫu thuật). Hiện tượng trên được gọi là triệu chứng Lucae.
X-Quang
Khi
có nghi ngờ viêm tai xương chũm cần chụp phim xác định các tổn thương.
Các tư thế: Schuller, Chaussé III, Stenvers, Mayer.
Tư thế Stenvers
Tư
thế này cho thấy hình chiếu của toàn bộ xương đá trên phim X-quang từ
phần ngoài tới phần trong mỏm chũm của xương đá. Nghiên cứu các chấn
thương sọ não gây vỡ xương đá theo đường ngang, viêm xương đá, các khối
u ở góc cầu tiểu não (ví dụ hình ảnh gián tiếp của u dây thần kinh
VIII).
Tư thế bệnh nhân
Nằm
sấp, đầu tựa vào bàn theo bờ trên ổ mắt, xương gò má và mũi. Như
vậy mặt phẳng dọc đứng của sọ tạo với đường thẳng đứng 450 cằm
không chạm bàn. Trục tia chính theo hướng sau trước tập trung vào vùng
chẩm đối bên.
Tiêu chuẩn
Hai
cạnh của ống bán khuyên đứng chồng nhau.
Kết quả
Bình
thường:
Bộ
phận tai trong, ốc tai, tiền đình, ống bán khuyên trên, ngoài nhìn
thấy. Riêng ống bán khuyên sau không nhìn thấy.
Thấy
ống tai trong, mỏm xương đá.
Bệnh
lý:
Vỡ
xương đá: có đường rạn nứt xương.
U
dây thần kinh VIII: ống tai trong giãn ra.
Ngoài
ra còn có các tư thế Mayer, Chaussé III, được chỉ định trong những bệnh
lý cụ thể.
Tư thế Schuller (thái dương-nhĩ)
Là
tư thế phổ biến và thông thường nhất. Khi có nghi ngờ viêm tai xương
chũm cần chụp phim xác định các tổn thương.
Tư thế bệnh nhân: nằm nghiêng theo kiểu chụp phim sọ
nghiêng. Nguồn tia chính chếch 250-300 so với trục 2 tai, tức là tâm
điểm của nguồn cách ống tai đối bên lên phía trên 7 cm và tia xuyên qua
ống tai bên chụp. Vành tai bên chụp phải gập về phía trước để hình
không trùm lên xương chũm.
Tiêu chuẩn
Thấy
rõ khớp thái dương hàm.
Ống
tai ngoài và ống tai trong trùng khít lên nhau, ngang mức với khớp
thái dương hàm.
Kết quả
Bình
thường: thấy rõ các thông bào và vách ngăn của chúng.
Bệnh lý:
Các
thông bào mờ, các vách ngăn không rõ trong viêm xương chũm cấp tính.
Các
thông bào mờ, các vách ngăn mất trong viêm xương chũm mạn tính.
Trên
nền xương chũm mờ, có vùng sáng, xung quanh có bờ đậm nét, trong lởn
vởn như mây nghĩ tới bệnh tích có cholesteatome.
Hình: Tư thế thái dương – nhĩ
Khám
thính lực
Bộ máy thính giác
Tai ngoài
Vành
tai làm nhiệm vụ thu nhận và hướng âm thanh.
Tai giữa
Hòm
nhĩ, xương con và các phần phụ thuộc làm nhiệm vụ truyền dẫn âm
thanh và biến đổi năng lượng âm để bù trừ vào chỗ hao hụt ở phần
sau.
Tai trong
Cơ
quan corti với các tế bào giác quan và dây thần kinh thính giác làm
nhiệm vụ tiếp nhận âm thanh và truyền lên não qua 5 chặng neuron. Mỗi
kích thích âm thanh nghe được từ 1 tai được truyền lên cả 2 bán cầu
đại não.
Ở
tai trong, âm thanh được truyền từ môi trường không khí, qua môi trường
nước (nội, ngoại dịch) đã mất đi 99,9 % năng lượng, chỉ có 0,1% năng
lương được truyền đi, tính ra cường độ giảm mất 30dB. Nhưng do hệ màng
nhĩ-chuỗi xương con ở tai giữa đã tác động như một máy biến thế nên
đã bù trừ vào chỗ mất mát đó. Kết quả người ta vẫn nghe được đúng
với cường độ thực ở bên ngoài.
Tai
giữa làm nhiệm vụ dẫn truyền âm thanh, bệnh tật ở bộ phận này gây
ra điếc dẫn truyền, sự giảm sút thính giác không bao giờ quá 60dB.
Nhiều loại điếc này có thể chữa khỏi, kể cả bằng phương pháp phẫu
thuật.
Tai
trong là bộ phận giác quan-thần kinh, thương tổn bệnh tật ở bộ phận
này có thể gây ra điếc nặng, thậm chí có thể điếc đặc, điếc hoàn
toàn. Điếc tai trong là điếc tiếp nhận.
Trong
thực tế nhiều trường hợp có cả thương tổn ở tai giữa và tai trong,
sẽ gây ra điếc hỗn hợp nghĩa là vừa có tính chất dẫn truyền vừa
có tính chất tiếp nhận. Tuỳ theo mức độ thiên về phía nào mà là
điếc hỗn hợp thiên về dẫn truyền hoặc thiên về tiếp nhận.
Đo sức nghe chủ quan (Subjectiv
audiometrie)
Bao
gồm đo sức nghe bằng tiếng nói, đo sức nghe bằng âm thoa và đo bằng
máy đo sức nghe.
Dùng tiếng nói
Là
cách đơn giản dùng ngay tiếng nói của thầy thuốc, với 1 số câu từ
đơn giản, thông thường, thực hiện trong 1 buồng hay hành lang có chiều
dài ít nhất là 5 m, tương đối yên tĩnh. Trước tiên đo bằng tiếng nói
thầm, nếu có giảm nghe rõ mới đo tiếp bằng tiếng nói thường.
Nguyên
tắc: bệnh nhân không được nhìn miệng thầy thuốc, đứng vuông góc với
thầy thuốc và hướng tai khám về phía thầy thuốc, tai không khám phải
được bịt lại.
Cách
đo: lúc đầu thầy thuốc đứng cách xa bệnh nhân 5 m, sau đó tiến dần
về phía bệnh nhân, đến lúc bệnh nhân nghe được và lặp lại đúng câu
nói của thầy thuốc, ghi khoảng cách.
Đo
bằng tiếng nói thầm: nói thầm (là nói bằng giọng hơi, không thành
tiếng) thường khám khoảng 5 m, nói từng câu, thông thường 3 đến 5 từ,
có thể nói 1 địa danh quen thuộc như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội... và yêu cầu bệnh nhân nhắc lại. Nếu bệnh nhân không nghe thấy,
thầy thuốc tiếp tục tiến dần sát với bệnh nhân (khoảng 0.5m), và ghi
lại khoảng cách đầu tiên mà bệnh nhân
nhắc lại được.
Bình
thường tai nghe được tiếng nói thầm ở khoảng cách 5 m, khoảng cách
càng ngắn là sức nghe càng giảm.
Đo
bằng tiếng nói thường: chỉ thực hiện khi khoảng cách nghe được với
tiếng nói thầm dưới 1 m vì tai bình thường nghe được tiếng nói
thường ở khoảng cách 50 m. Cách đo tương tự như trên, thay tiếng nói
thầm bằng tiếng nói thường như trong giao tiếp sinh hoạt.
Nhận
định:
Bình
thường:
Nói
thầm: nghe xa được 5 m.
Nói
thường: nghe xa được 50 m.
Kết
quả: đo đơn giản bằng tiếng nói trên cũng cho phép phát hiện ban đầu
tình trạng và mức độ nghe kém.
Bảng
tính thiếu hụt sức nghe sơ bộ
Khoảng
cách nghe được tính theo mét
|
%
Thiếu hụt sức nghe
|
|
Tiếng
nói thầm
|
Tiếng
nói thường
|
|
≤ 0,5 m
0,5
m đến 0,1 m
0,1
m đến 0,05 m
Sát
vành tai không nghe được
|
≤
5 m
5
m đến 1 m
1
m đến 0,5 m
Cách
1 gang tay sát vành tai
|
≤
35%
35%
đến 65%
65%
đến 85%
85
đến 100%
|
Đo bằng dụng cụ đơn giản
Với
những người nghe kém nặng hay với trẻ nhỏ, thường dùng các dụng cụ
phát âm đã được chuẩn hoá tương đối như: trống, còi, chuông,
mõ...hoặc các máy đơn giản phát được vài âm tần hay tiếng đơn giản
như: tiếng súc vật, tiếng tàu, ô tô... ở 1 vài cường độ lớn nhất
định để xem có nghe được hay có phản xạ, phản ứng như chớp mắt, cau
mày, co chi, quay đầu... với các tiếng đó không? Qua đó sơ bộ xác
định khả năng nghe.
Đo bằng âm thoa
Thường
dùng 1 âm thoa 128Hz hay 256Hz
Cách
đo:
Đo
đường khí: sau khi phát ra âm thanh, để 2 ngành âm thoa dọc trước lỗ
tai ngoài, cách độ 2cm.
Đo
đường xương: ấn nhẹ cán âm thoa lên mặt xương chũm. Tính thời gian từ
khi gõ âm thoa đến khi không nghe được, theo đơn vị giây.
Các
nghiệm pháp: dùng âm thoa 128Hz (dao động 128 chu kỳ/giây) gõ vào lòng
bàn tay và làm 3 nghiệm pháp dưới đây:
Nghiệm
pháp Weber: gõ rồi để cán âm thoa lên đỉnh đầu hay giữa trán, hỏi bệnh
nhân tai nào nghe rõ hơn, nếu tai nào nghe rõ hơn tức là Weber lệch về
tai bên đó (bình thường hai tai nghe như nhau).
Nghiệm
pháp Schwabach: tính thời gian nghe bằng đường xương (bình thường 20
giây).
Nghiệm
pháp Rinne: so sánh thời gian nghe bằng đường khí và thời gian nghe
bằng đường xương. Bình thường thời gian nghe bằng đường khí kéo dài
hơn thời gian nghe bằng đường xương nghiệm pháp Rinne (+). Nếu thời gian
nghe bằng đường khí ngắn hơn thời gian nghe bằng đường xương nghiệm
pháp Rinne (-).
Nhận
định: Phiếu đo sức nghe đơn giản
Tai
phải
|
Phươngpháp
|
Tai
trái
|
50
m
|
Nói
thường
|
5
m
|
5
m
|
Nói
thầm
|
Sát
tai
|
(+)
|
Rinne
|
(-)
|
20
giây
|
Schwabach
|
20
giây
|
|
Weber
|
Sang
trái
|
Kết
luận:
Tai
phải nghe bình thường.
Tai
trái nghe kém thể dẫn truyền.
Trường
hợp điếc hỗn hợp: dùng thêm các âm thoa 128, 256, 512, 1024, 2048, 4096Hz
sẽ thấy đối với âm thoa này (ví dụ âm trầm) thì có tính dẫn
truyền, đối với các loại khác (ví dụ âm cao) thì lại có tính tiếp
nhận.
Dùng máy đo sức nghe (Audiometer -
Thính lực kế)
Cách
đo:
Đo
thính lực tức là tìm được ngưỡng nghe của bệnh nhân (mức cường độ
tối thiểu để có thể nghe được âm đơn ở từng tần số).
Âm
được phát theo đường khí (qua loa tai) hoặc qua đường xương (qua núm
rung) tới từng tai.
Phải
tiến hành đo trong buồng cách âm. Nối các điểm ngưỡng nghe ở các tần
số tạo thành một biểu đồ gọi là thính lực đồ.
Ký hiệu
|
Tai phải
|
Tai trái
|
Đường khí
|
0 ¾ 0 (màu xanh)
|
x ¾ x (màu đỏ)
|
Đường xương
|
[ ¾ [
|
] ¾ ]
|
Đo lần lượt từng tai, kết quả ghi trên biểu đồ sức nghe bằng ký hiệu:
Nhận
định:
Trục
đứng là trục cường độ đơn vị là dB. Trục ngang là trục tần số đơn
vị là Hz.
Máy
thông thường phát ra các âm có tần số 125, 250, 500, 1000, 2000, 4000,
8000 Hz và có thể các tần số trung gian 3000, 6000 Hz, ở các mức
cường độ 0-100 dB. Máy đo sự giảm sút sức nghe so với người bình
thường, 0 dB là cường độ tối thiểu để người bình thường bắt đầu
nghe được. Máy đo từng mức 5 dB, trên máy có ghi cường độ - 20 dB, - 10
dB đo cho những người nghe tốt hơn mức bình thường. Giảm sức nghe càng
nhiều, số đo càng lớn.
Đo
đường xương bằng khối rung, kết quả phản ánh dự trữ ốc tai, tiềm
năng sức nghe.
Phân
loại điếc:
Sức
nghe bình thường.
Điếc
dẫn truyền đơn thuần.
Điếc
tiếp nhận đơn thuần.
Điếc
hỗn hợp.
Mức
độ điếc:
Điếc
nhẹ 20 - 40 dB.
Điếc
vừa 40 - 60 dB.
Điếc
nặng 60 - 80 dB.
Điếc
đặc > 80 dB.
Đo sức nghe khách quan (objectiv
audiometrie)
Đo trở kháng
Có
hai ứng dụng trên lâm sàng.
Nhĩ
lượng (Tympanometrie): bình thường biểu hiện như một hình nón không cân
xứng, đáy loe, đỉnh trùng với áp suất bằng 0. Khi có dịch tiết hay
nhầy trong hòm nhĩ, vòi nhĩ bị tắc một phần hay tắc hoàn toàn...
Nhĩ lượng có hình ảnh bệnh lí đặc biệt.
Phản
xạ cơ bàn đạp (Impedancemetrie): trường hợp bình thường và điếc dẫn
truyền đơn thuần, ngưỡng phản xạ cách ngưỡng nghe khoảng 85 dB. Khi có
hồi thính, ngưỡng này thu hẹp lại. Đo phản xạ có thể phát hiện
nhiều trường hợp điếc giả vờ.
Đo điện ốc tai và điện thính
giác thân não
Nguyên
lý: khi nghe một âm thanh cũng giống như thu nhận một kích thích, một
cảm giác khác, điện não có biến đổi nhưng sự biến đổi đó quá nhỏ
bị lẫn vào trong biểu đồ ghi điện não tổng hợp nhiều quá trình
hoạt động của não. Nếu ta phát những âm thanh (clic hoặc burst) liên
tục và ghi dòng điện não (bằng cách đặc biệt phân tích dòng này
thành nhiều điểm, dùng máy tính điện tử ghi tổng số ở từng điểm
sau mỗi lần phát âm ra) sẽ cho thấy đáp ứng của não đối với âm thanh
nếu tai nghe được, tùy theo vị trí đặt cực.
Cách
đo:
Đo
điện ốc tai (Electrocochleographie): điện cực đặt ở đáy hòm nhĩ hoặc
ống tai.
Đo điện thính giác thân
não: ERA (Electro respontal audiometrie) và BERA (Brain electro respontal
audiometrie) điện cực đặt ở vùng trán, đỉnh đầu và xương chũm.
mtwm
ReplyDelete