Chăm sóc trẻ sơ sinh (P1)

Mục tiêu  
1.                         Trình bày được đặc điểm của trẻ sơ sinh đủ tháng khoẻ mạnh.  
2.                         Nêu được nguyên nhân đẻ non.  
3.                         Trình bày được đặc điểm của trẻ sơ sinh thiếu thánggià tháng.  
4.                         Nhận biết được trẻ sơ sinh đủ thángthiếu tháng  già tháng 
5.                         Trình bày được cách chăm sóc trẻ sơ sinh đủ tháng khoẻ mạnh.  
6.                         Trình bày được cách chăm sóc trẻ sơ sinh thiếu thánggià th áng.  
7.                         Lập được kế hoạch chăm sóc trẻ sơ đủ tháng/thiếu tháng/già tháng.  
Nội dung  

Thời kỳ sơ sinh  thời kỳ được tính từ lúc trẻ ra đời tới hết tuần thứ 4 sau đẻ. Đây  thời kỳ chuyển tiếp từ cuộc sống của thai nhi trong tử cung (một cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào người  mẹ)  sang cuộc sống hoàn toàn khác:  cuộc sống ngoài tử cung. Thời kỳ này trẻ phải thích nghi với cuộc sống bên ngoài tử cung, trong lúc cơ thể đang non yếucác bộ phận chưa hoàn chỉnh vậy trẻ dễ mắc bệnhbệnh thường nặng  dễ tử vong, nếu không được chăm sóc chu đáoViệc chăm sóc trẻ sơ sinh đòi hỏi phải tỉ  mỉcẩn thận  sạch sẽ như vậy chúng ta mới tránh được nguy cơ nguy hiểm cho trẻ.  
1. Trẻ sơ sinh đủ tháng khoẻ mạnh  
Trẻ sơ sinh đủ tháng  trẻ  tuổi thai phát triển trong tử cung 9 tháng 10 ngày hoặc 38 đến 42 tuần hoặc 278 ngày ± 15 ngày tính từ ngày đầu của kỳ kinh cuối (theo một số tác giả Anh Mỹ thì tính từ ngày thứ 15 của kỳ kinh cuối).  
1.1. Những biểu hiện bên ngoài của trẻ sơ sinh  đủ tháng khoẻ mạnh Cân nặng lúc đẻ >  2500g (theo WHO).  
·         Chiều dài cơ thể > 45 cm (theo WHO).  
·         Da hồng hàolớp mỡ dưới da phát triển tốt, không thấy  các mạch  máu dưới da.  
·         Tóc dài > 2cm; ít lông tơ, chủ yếu ở vùng vai, lưng, trán  thái dương; móng tay, móng chân đã cứ ng  dài hơn đầu ngón tay ngón chân.  
·         Con trai tinh hoàn đã xuống hạ nang, con gái môi lớn bao trùm  âm  vật  môi nhỏ.  
·         Vòng rốn ở điểm giữa khoảng cách từ xương mu đến mỏm xương ức.  
·         Khóc to, điểm Apgar 8 10 những phút đầu.  
·         Trẻ nằm trong tư thế các chi gấp hẳn lại.  
·         Thở đều 40 50 lần /phút.  
·         Tiêu hoá khoẻ, không nôn, ỉa phân su ngay trong ngày đầu.  
·         Không  dị tật bẩm  sinh.  
1.2. Những  hiện tượng sinh  xảy ra trong thời kỳ sơ sinh  
Trong thời kỳ sơ sinh còn  một số hiện tượng sinh   như: Vàng da sinh sụt cân sinh rối loạn thân nhiệt  những biến động sinh dục...  
·                                 Vàng da sinh  (Icterus physiologica neonatorum): Gặp ở 60  - 80%  số trẻ sơ sinh,  hậu quả của việc tăng giải phóng Bilirubin do vỡ nhiều hồng cầu sau đẻxảy ra trên một cơ thể  chức năng chuyển hoá Bilirubin của gan còn kém (không đủ men glucoronyltransferaseBilirubin không gắn được với acid glucronic, nên không tan trong nước, không đào thải được qua thận tính thấm thành mạch tăng, tạo điều kiện cho Bilirubin ngấm nhiều vào tổ chức mỡ  dưới da. Hiện tượng vàng da thường  xuất hiện vào ngày thứ 3,  nhất vào ngày thứ 4   thường  hết vào ngày thứ 7 10,  biệt  thể kéo dài đến tuần thứ 3 sau đẻHiện tượng này thường  kéo dài hơn ở trẻ sơ sinh non, yếu. Do vậyhiện tượng vàng da sinh  chỉ thoáng qua  không cần điều trị . Nhưng nếu vàng da xuất hiện trước 24 giờ sau đẻ hoặc kéo dài quá một tuần ở trẻ đủ  tháng  thì đều phải coi  bệnh cần được  theo dõi sát về lâm  sàng  về xét nghiệm định lượng bilirubin trong máuLượng bilirubin toàn phần được coi  bệnh  khi đạt mức trên 10mg/lít.  
·                                 Sụt cân sinh Thường gặp khoảng 80% số trẻ sơ sinh đủ thángSụt cân xảy ra  tiến triển trong thời gian từ ngày thứ 2 4 sau đẻĐến ngày thứ 4, trọng  lượng của trẻ thường sụt khoảng 5 6%, đôi khi tới 6 9%, nhưng không bao giờ sụt tới 10% trọng lượng khi đẻ. Trong thời gian nàytrẻ không  các biểu hiện bệnh  khác như sốtkhó thở, nôn, tiêu chảybỏ Từ ngày thứ 4 - 5 trở đi, cân nặng dần dần được hồi phục  thường đến ngày thứ 10 15 thì cân nặng của trẻ được hồi phục trở lại như trọng lượng ban đầuMột số trẻ (25%) cân nặng  thể hồi phục trở lại sớm hơn (vào ngày thứ 7 10 sau đẻ). Nguyên nhân của hiện tượng sụt cân sinh   do trẻ bị mất nước qua da, qua hơi thởđáiỉa phân su... trong lúc trẻ  ítsữa mẹ ít  trẻ lại phải tiêu hao nhiều năng lượngnhất  cho sự mất nhiệt. Khi thấy trẻ sơ sinh sụt cân nhiều từ 10% trở lên thì hiện tượng này không còn  sinh  nữa. Trong trường hợp nàynếu trẻ không bị bệnh tật  thì  thể do chế độ ăn chưa đáp ứng được nhu cầu của trẻ. - Những biến động sinh dụcTrẻ trai hay gái cũng thường thấy sưng 2 , không đỏ, sờ thấy tròn mềm như hạchđó  sữa non. Ngoài ra, ở trẻ gái còn  thể thấy hiện tượng ra vài giọt máu ở cửa mình. Đây  những hiện tượng xảy ra do ảnh hưởng nội tiết tố của mẹ sang con, do vậy chúng sẽ tự hết sau 1 tuần. -  thể xảy ra hiện tượng rối loạn thân nhiệt: Trong tuần đầu sau đẻ, đôi khi thấy trẻ sốt nhẹ hoặc sốt cao 38 – 390C, trong khi trẻ hoàn toàn không bị viêm nhiễmHiện tượng này thường xuất hiện trong vài giờ, đôi khi  thể tái phát vài lần  kéo dài tới 2ngàySốt  thể làm cho trẻ quấy khócthậm chí  thể co giậtSốt thường xảy ra trùng với giai đoạn sụt cân sinh   nguyên nhân chính  sự mất nước của cơ thể. Do vậy, trong giai đoạn này cần cho trẻ  nhiều  uống thêm  nhiều nướcVề mùa  nóng nực, không nên quấn quá nhiều  lót cho trẻ.  
Trẻ sơ sinh cũng  thể bị hạ thân nhiệt, đôi khi thân nhiệt  thể  xuống tới  35 -360C. Nguyên  nhân  gây  hạ  thân  nhiệt   do da của trẻ mỏng, mao mạch dưới da của trẻ rộngtrẻ được tiếp xúc với môi trường ngoài tử cung  nhiệt độ thấp hơn nhiều so với  trong bụng mẹ ( trẻ được đặt nằm trong phòng lạnh hoặc thời tiết lạnh, không được quấn đủ ấm  thể trẻ lại bị đói ăn.  
Sự chưa hoàn thiện về chức năng của trung tâm điều hoà thân nhiệt cũng  một vai trò nhất định trong hiện tượng rối loạn thân nhiệt nêu trên của trẻ sơ sinh.  
·                                 Hạ đường huyết  hiện tượng  thể gặp ở trẻ sơ sinh do trẻ bị đói ăn ( cho  muộn). Do vậy, trong trường hợp không thể cho trẻ  sớm đượcthì nên cho trẻ uống nước đường trong thời gian chờ sữa mẹ.  
1.3. Chăm sóc trẻ sơ sinh đủ tháng khoẻ mạnh  
 thể  khẳng định rằng tỷ lệ tử vong  tỷ lệ bệnh tật của trẻ sơ sinh phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của việc chăm sóc. Trong việc chăm sóc   nuôi nấng đứa trẻcần đảm bảo 2 nguyên tắc chính sữa mẹ  vô khuẩn. Hai nguyên tắc này phải được áp dụng triệt để  trong các nhà hộ sinh, phòng dưỡng nhi, nhân viên y tế cũng như bố mẹ các cháu.  
Trong nhà hộ sinh cần  phòng riêng cho trẻ sơ sinh khỏe mạnh,  phòng riêng  cho trẻ đẻ  non đẻ yếu  phòng riêng cho trẻ bị  nhiễm khuẩnCác phòng này phải sạch sẽấm áp về mùa lạnh,  thoáng mát về mùa nóng  không  gió lùa.  
Tất cả nhân viên phục vụ đều phải mặc áo choàngđội   đeo khẩu trang mỗi khi chăm sóc hoặc thăm khám cho trẻ.  
1.3.1. Chăm sóc trẻ ngay sau khi đẻ  
·         Làm sạch đường thở bằng cách hút đờm rãi ở mũi họng càng sớm càng tốt (Nếu trẻ khóc to thì không cần).  
·         Lau toàn thân cho trẻ bằng khăn khô  ấm.  
·         Cắt rốn  nhiều phương pháp:  
Cắt rốn thông thườngCắt rốn cách vòng da rốn 2 -cm bằng kéo đã hấp 120oC trong 30 phútdùng cồn iod 1% để  lau cuống rốn  chấm vào vết cắt,  quấn bằng cố định bằng.  
Kẹp cắt rốnDùng kìm chuyên dụng kẹp sát vòng da rốn (không kẹp vào da) bằng kẹp kim loạidùng kéo cắt sát bờ trên kẹpchấm cồn iod 1%, băng thoáng.  
Cắt rốn một thìDùng kéo cắt sát vòng da rốnchấm cồn iod, băng vô khuẩnMột số trường  hợp    thể  chảy máu  rốn  trong ngày  đầu  khi cắt  rốn  bằng phương pháp này.  
·         Băng rốn bằng băng vô khuẩn.  
·         Tính điểm Apgar cho trẻ ngay sau khi ra đời (Sau cắt rốn hoặc làm rốn).  
·         Xác định giới tínhkiểm tra phát hiện dị tật.  
·         Mặc áoquấn  lót đủ ấmđể trẻ nằm nghiêng một bên.  
1.3.2. Chăm sóc hàng ngày  
1.3.2.1. Nhận định  
Màu sắc da:  
Bình thường da hồng hào, trên da  một lớp chất gây màu trắng hay vàng nhạtLớp mỡ dưới da phát triển tốt, không nhìn  các mạch  máu dưới da.  ít  lông tơ phủ ở da vùng lưng, vai, tránthái dương.  
Nếu trên da  mụn mẩn đỏ hay tím tái thì cần cho trẻ đi khám bệnh ngay. Biểu hiện viêm da do liên cầu ở trẻ sơ sinh  bệnh  hay gặp  thường  được các bậc cha mẹ gọi  “kê”. Đó  những chấm nhỏ màu đỏ xuất hiện trên da toàn thân kể cả da mặt cùng với triệu chứng quấy khócsốt nhẹ. Sau 1 - ngày  thể thấy xuất hiện những điểm trắng (mủ) ở giữa các chấm đỏ đó.  
Hô hấp:  
Thở  yếu tố quyết định sự sống của trẻ. Trong phút đầu sau đẻtrẻ chỉ  động tác hít vàothể hiện bằng thở nấc. Sau đó, khi  tiếng khóc chào đời  lúc trẻ  động tác thở ra, hít vào với tần số khoảng 60 lần/phút, không đềuthỉnh thoảng  cơn ngừng thở ngắn 3 5 giây, đôi khi thấy co kéo nhẹ cơ hô hấp hoặc thở rên. Hiện tượng này sẽ mất nhanh trong 1 giờ đầu. Sau đó nhịp thở ổn định dần, dao động trong khoảng 50 - 40 lần/phút. Khi nhận định về hô hấp cần phải:  
+ Quan sát kiểu thở, cơn ngừng thởTrẻ thở  đều  không? Nếu  cơn ngừng thở thì thời gian ngừng thở  bao nhiêu giây? Nếu cơn ngừng thở kéo dàikèm theo  tím tái da  niêm  mạc thì phải nghĩ đến bệnh đường hô hấp hoặc sang chấn não  
Nhìn xem trẻ  sùi bọt cua không?  
+ Nghe xem  tiếng thở bất thường như tiếng khò khètiềng thở rít. Nhìn xem trẻ thở  phải gắng sức không?  dấu hiệu rút lõm lồng ngực không?  
Đếm  tần số thở của trẻ   xác định  xem  bình thường  không? Bình thường trẻ thở 40 60 lần/phút (phải đếm tần số thở trong một phút). Nếu trẻ thở >60 lần/phút hoặc <40 lần/phúthoặc cơn ngừng thở kéo dài trên 10 giây;  hoặc  tím tái hay sùi bọt cua thì cần cho trẻ đi khám bệnh ngay.  
Tim mạch:  
Nhịp tim của trẻ sơ sinh thường  phụ thuộc vào nhịp thở, nên thường  không đều, nhanh, dao động trong khoảng 160 140 lần/phútHuyết áp của trẻ sơ sinh thấphuyết áp tối đa vào khoảng 50 60 mm Hg. ở nước ta, nhiều nơi chưa  huyết áp kế để đo huyết áp cho trẻ sơ sinh. Mạch của trẻ sơ sinh nhanh, nảy yếukhó bắt.  
Tiêu hoá:  
Bình thường trẻ  khoẻ, trung bình 10 12 lần/ngàymỗi bữa  khoảng 18 - 20 phút ( cả hai bầu  nếu thiếu sữa cạn từng bầu , luân phiên nếu nhiều  sữa), sau khi  trẻ thường ngủ lâu trên 2 giờTrẻ thường đi  ỉa phân su trong ngày đầu.  ở trẻ khoẻ mạnhbụng mềm, không chướng.  
Nếu trẻ  yếungủ li  hoặc chướng bụngngày đầu không ỉa phân su hay phân  tính chất khác thường thì cần cho trẻ đi khám bệnh.  
Thân nhiệt:   
Bình thườngnhiệt độ của trẻ sơ sinh : 36 37oC (cặp ở nách). Nếu trẻ hạ nhiệt độ hoặc  sốt cần cho trẻ đi khám bệnh ngay.  
Tiết niệu:  
Trong ngày đầu trẻ  thể đái rất ít hoặc không đái. Sang các ngày sau trẻ đái nhiều hơn. Trong tháng đầu trẻ  thể đái từ 20  25 lần/ngàynước tiểu trong hoặc vàng nhạt.  
Thần kinh:  
Hệ thần kinh của trẻ luôn trong tình trạng bị ức chế, cho nên trẻ ngủ suốt ngày hiện tượng tăng trương lực các cơ gấp, do đó trẻ luôn luôn ở trong tư thế co tay, co chân, bàn tay nắm chặt.  
Nếu trẻ quấy khóc hoặc nằm trong tư thế chân, tay duỗi thẳngthì rất  thể trẻ bị các bệnh liên quan đến hệ thần kinh. Trong trường hợp nàythóp  cửa sổdựa vào đó  thể đưa ra được nhận định khách quan. Mặt khác thể bổ sung bằng việc nhận định phản xạ  của trẻ. Đây  phản xạ bẩm sinh, chỉ  thể mất phản xạ này khi  tổn thương nặng ở não.  
Các giác quan:  
+ Xúc giác: Là giác quan phát triển tốt nhất. Khi ta vuốt nhẹ lên lưng hoặc ngực thì trẻ sẽ thở sâu hơn; sờ vào mi mắt  - trẻ sẽ nhắm mắt lại; tiêm  - trẻ sẽ khóc. Do đó, mỗi khi tiêm cho trẻ sơ sinh mà không thấy trẻ khóc thì việc thăm khám lại  một cách kỹ lưỡng, toàn diện là rất cần thiết.  
+ Thính giác: Phát triển tốt, do vậy trẻ hay giật mình khi có tiếng động.  
+ Khứu giác: Phát triển tương đối tốt.  
Khi mẹ bế, trẻ lúc lắc đầu để tìm vú mẹ, do nhận biết được mùi sữa.  
+ Vị giác: Tuy đã phát triển nhưng chưa hoàn thiện. Trẻ thích vị ngọt, do đó nhiều trẻ bỏ bú mẹ sau khi được cho ăn sữa bò ngọt hơn. Đây là điều chúng ta cần lưu ý khi hướng dẫn các bà mẹ cho trẻ ăn hỗn hợp.  
+ Thị giác: Là giác quan kém phát triển nhất. Trẻ nhìn không định hướng, có thể bị lác trong nhẹ, đôi lúc có rung giật nhãn cầu. Tuyến nước mắt chưa phát triển nên trẻ sơ sinh khóc không có nước mắt.  
1.3.2.2. Chăm sóc - Chăm sóc rốn:  
Bình thường,  theo cách cắt rốn hiện nay ở nước ta, rốn rụng vào khoảng từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7 sau đẻ; trẻ đẻ non rốn rụng muộn hơn. Với phương pháp kẹp - cắt rốn như ở các nước châu Âu, rốn thường rụng vào ngày thứ 3. Hiện nay, phương pháp này đã và đang được áp dụng trong một số bệnh viện lớn ở nước ta. Trong thời gian rốn chưa rụng, phải thay băng rốn hàng ngày bằng băng đã được hấp vô khuẩn sau khi lau cuống rốn bằng cồn iod 1%. Tốt nhất là chỗ cắt rốn phải được rửa mỗi ngày 2 lần bằng một loại amoni bậc 4. Sau khi rốn rụng, vẫn phải lau rốn hàng ngày bằng bông thấm cồn iod sau mỗi lần tắm, không được để rốn ướt, bẩn khi rốn chưa liền. Có thể áp dụng phương pháp cắt rốn 1 thì: Cắt sát vòng da rốn, không buộc không kẹp, việc băng và chăm sóc rốn cũng không có gì đặc biệt.  
Nếu thấy rốn rụng quá sớm, quá muộn hoặc rốn ướt, rốn có mủ cần phải đưa trẻ đi bệnh viện. Không nên rắc bất cứ một thứ thuốc bột hoặc bôi bất cứ một thứ thuốc gì vào rốn.  
Nếu rốn bị lồi (sau khi rốn rụng) cần đặt vào rốn một cuộn băng nhỏ có đường kính bằng chỗ lồi, rồi băng lại.  
·    Chăm sóc da:  
Ngày thứ nhất cần thấm khô và lau sạch lớp gây ở các nếp gấp cổ, bẹn, nách, còn các vị trí khác chỉ cần thấm khô, tránh để mất lớp gây, vì nó có tác dụng bảo vệ và dinh dưỡng da, giữ nhiệt độ cơ thể và chống nhiễm khuẩn. Sang ngày thứ hai dùng  khăn ấm và ướt lau hết các lớp gây trên da cho trẻ.  
·    Tắm:  
Tắm cho trẻ bằng nước sạch và ấm. Phải tắm trong phòng ấm và kín không có gió lùa.  Phòng tắm cần phải đảm bảo nhiệt độ 28  - 30 0C, nước tắm là nước chín ở khoảng 37 – 380C, thời gian tắm một lần không quá 5 phút, cần tắm bằng xà phòng trung tính hoặc dung dịch tắm sát khuẩn có độ toan. Không được nhúng trẻ vào chậu nước mà phải lau từng phần. Lúc đầu, lau nửa người trên, lau khô rồi quấn ấm cho trẻ; sau đó mới lau tiếp nửa người  dưới. Sau khi lau khô, quấn ấm, đặt trẻ nằm nghiêng  một bên (nếu trẻ đủ tháng) hoặc nằm sấp, đầu nghiêng về một bên (nếu là trẻ đẻ non) để tránh sự trào ngược các chất từ dạ dày vào phổi. Trong thời gian rốn chưa rụng hoặc rốn chưa liền, khi tắm cần tránh không để ướt giây rốn hoặc rốn.  
·    Nhỏ mắt:  
Cần  nhỏ  mắt  hàng  ngày nhiều lần và sau mỗi lần tắm bằng dung dịch Cloramphenicol 4%o hoặc bạc nitrat trong 8 ngày đầu. Nếu thấy có hiện tượng xuất tiết bất thường ở góc trong của mắt, thì cần phải nhỏ thuốc kháng sinh nhiều ngày hơn phối hợp với việc xoa bóp nhẹ góc trong  của mắt vì đây là biểu hiện của viêm túi lệ. Nếu không có tiến triển tốt thì cần đưa đến bác sỹ chuyên khoa để thông ống lệ dưới.  
·    Cho ăn:  
Ngay sau khi đẻ, trẻ đã có phản xạ bú, do vậy cần cho trẻ bú càng sớm  càng tốt (để sữa xuống sớm  và tử cung co hồi  tốt). Phải tiến hành cho trẻ ăn sớm  bằng sữa mẹ, không nên để muộn quá 6 giờ sau đẻ (đẻ về đêm khuya, mổ đẻ hoặc mẹ mệt thì có thể cho trẻ bú sau 4 - 6 giờ.).   
Trong những tuần đầu tiên, trẻ phải được ăn no bằng việc bú mẹ mỗi lần 1 hoặc 2 vú trong thời gian dưới 30 phút. Cho trẻ bú hết bên này rồi mới chuyển sang bên kia để tận dụng được nguồn sữa cuối có nhiều chất béo giúp trẻ tăng cân nhanh đồng thời kích thích quá trình tạo sữa. Do vậy, nếu sau khi cho trẻ bú mà vú vẫn còn sữa thì cần vắt kiệt sữa. Trong giai đoạn này, bà mẹ cần được ngủ nhiều, ăn no, ăn đầy đủ các  chất dinh dưỡng và uống nhiều nước để có đủ sữa cho con bú. Đối với mẹ, nếu có loại thức ăn cần phải tránh thì có chăng là các loại  gia vị như  hành, tỏi, thì là, rau thơm..., vì chúng gây cho sữa có mùi khó chịu, dễ làm cho trẻ bỏ bú.  
Không nên  đề  ra các quy định chặt chẽ về số lần bú trong 24 giờ. Vấn đề  là ở chỗ: “phải cho trẻ bú theo nhu cầu và theo khả năng hấp thu của mỗi đứa trẻ”. Nghĩa là: cho trẻ bú khi nó đòi ăn, kể cả ban đêm. Đối với trẻ sơ sinh, để  cân đối giữa thời gian thức và  ngủ, trung bình nên cho bú 7 lần trong 24 giờ, có thể  thay đổi  trong khoảng từ 6 đến 8 lần. Trong trường  hợp  bú mẹ, không cần thiết phải cân trẻ trước và sau mỗi lần bú.
Việc đánh giá xem trẻ ăn đã đủ chưa là dựa vào thái độ và mức lên cân của trẻ. Trung bình mỗi ngày trẻ tăng từ 20 đến 30g.   
Nếu trẻ ăn kém có thể hướng dẫn bà mẹ vắt sữa và cho trẻ ăn bằng thìa.  
Nếu bà mẹ hoàn toàn không có sữa, có thể hướng dẫn để bà mẹ xin sữa ở những bà mẹ khác hoặc tư vấn cách sử dụng các loại sữa thay thế sữa mẹ một cách khoa học ( phải chọn đúng loại sữa và pha đúng theo tuổi). Nếu không có sữa mẹ, phải cho ăn bằng sữa bò thì nên cho uống Vitamin D sớm ngay từ tuần thứ 2, mỗi ngày 1500 - 2000đv. Cho trẻ uống ít nước nguội sau mỗi lần bú.  
·         Phòng nuôi trẻ:  
Phòng nuôi trẻ phải đảm bảo thoáng, sạch, ấm, đủ ánh sáng, tránh gió lùa, nhiệt độ trong phòng từ 28 - 30oC. Không nên để quá đông trẻ, tối đa 6 trẻ/phòng. Phải có đủ  nước để  rửa tay, có đủ  phương tiện cấp cứu hoặc ở gần  trung tâm cấp cứu.  
·         Bảo vệ nhiệt độ cơ thể:  
Không được để trẻ ướt, phải thay tã lót ngay sau khi trẻ đái, ỉa. Mặc tã lót, quần áo cho trẻ bằng vải sợi bông, sạch và đủ ấm.  
·         Tránh nguy cơ nhiễm khuẩn chéo:  
Nhân viên chăm sóc phải khoẻ mạnh, không có bệnh lây, phải rửa tay trước khi chăm sóc trẻ, có quần áo riêng để chăm sóc trẻ và phải thay thường xuyên.  
Về  nhà, trẻ phải được nằm ở phòng ấm về mùa đông, thoáng mát về  mùa hè, giường, chiếu, chăn, màn phải sạch sẽ, thơm tho. Phải chuẩn  bị đầy đủ quần,  áo, tã lót hợp vệ sinh cho trẻ. Đối với trẻ, chất liệu tốt nhất là từ vải bông. Vệ sinh cá nhân đối với người mẹ cũng cần được quan tâm chặt chẽ.  
·         Phòng bệnh:  
Trẻ sơ sinh rất dễ bị nhiễm lạnh, rất dễ bị lây bệnh, nhất là các bệnh truyền nhiễm. Sau khi đẻ, phải đưa trẻ đi tiêm phòng lao: Tiêm 0,1ml vác xin BCG. Không dùng vắc xin cho những trẻ đang sốt cao, nôn trớ  nhiều hoặc đang bị các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính như: viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, những trẻ bị sang chấn thần kinh lúc đẻ.  
·         Tiêm  bắp 2 -5mg Vitamin K để đề phòng bệnh xuất huyết não - màng não.  
  

Post a Comment